Từ
phố Tam Bạc đến phố Qunag Trung, dài 180m, rộng 6m. Cắt qua phố Lý
Thường Kiệt và Phan Bội Châu. Phố thuộc đất xã An Biên cũ, trước giải
phóng thuộc khu Trung Ương.
Lúc
mới mở gọi là phố Pagốt (Rue de la Pagode), tiếng Pháp có nghĩa là phố
đền. Song nhân dân quen gọi là phố Đền Nhà Bà vì phố ở sau đền này.
Phố Tôn Thất Thuyết
Từ phố Tam Bạc đến phố Qunag Trung, dài 180m, rộng 6m. Cắt qua phố Lý Thường Kiệt và Phan Bội Châu. Phố thuộc đất xã An Biên cũ, trước giải phóng thuộc khu Trung Ương.
Lúc mới mở gọi là phố Pagốt (Rue de la Pagode), tiếng Pháp có nghĩa là phố đền. Song nhân dân quen gọi là phố Đền Nhà Bà vì phố ở sau đền này.
Sau cách mạng tháng Tám đổi gọi là phố Nguyễn Đình Chiểu.
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) quê gốc ở Thừa Thiên, sinh ở làng Tân Khánh, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định trong một gia đình quan lại nhỏ. Sau cho ông gửi ông ra Huế học. Đầu năm 1849, lúc sắp thi thì nghe tin mẹ mất từ cuối năm trước, ông vội về Nam chịu tang mẹ, dọc đường bị ốm, lại khóc mẹ nhiều quá nên bị mù cả hai mắt.
Năm 1859, thực dân Pháp xâm chiếm Nam Kì, vì mù lòa không trực tiếp tham gia đánh giặc được, ông chạy về quê vợ là Cần Giuộc rồi tản cư sang Ba Tri. Tại đây ông thường giao tiếp với các trí sĩ yêu nước và lãnh tụ nghĩa quân, làm thơ văn phục vụ công cuộc kháng chiến của dân tộc. Thấy ông là nhà nho có uy tín trong nhân dân, Pháp tìm cách mua chuộc, dụ dỗ nhưng ông cự tuyệt.
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ yêu nước lớn của dân tộc, sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn, trước khi Pháp xâm lược có: Dương Từ Hà Mậu, Lục Vân Tiên; sau có Văn tế vong hồn dân mộ nghĩa ở Cần Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Ngư - Tiều y thuật vấn đáp… Những tác phẩm này phản ánh rõ nét hình ảnh những ngày đầu chống Pháp của dân tộc ta. Các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu in dấu khá rõ cuộc đời của chính ông.
Từ năm 1954 phố được gọi là phố Tôn Thất Thuyết.
Tôn Thất Thuyết là quan đại thần triều Nguyễn, làm tới chức Thượng thư Bộ binh. Sau khi Tự Đức chết, ông ở trong Hội đồng phụ chính. Là người kiên trì chống Pháp, dựa vào một số quan lại có tinh thần dân tộc, ông đã phế truất những vua thân Pháp, từ Dục Đức, Hiệp Hòa đến Kiến Phúc (vì Tự Đức không có con nên việc đưa người kế tục do Hội đồng phụ chính quyết định). Cuối cùng Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi lên ngôi. Ngày 5/7/1885, Tôn Thất Thuyết đánh Tòa Khâm sứ và đồn Mang Cá của Pháp ở kinh thành Huế nhưng thất bại. Ông đưa Hàm Nghi lên vùng núi Quảng Trị. Ngày 17/5/1885, từ sơn phòng, Hàm Nghị hạ chiếu Cần Vương hô hào nhân dân chống Pháp xâm lược. Phong trào Cần Vương sôi nổi khắp nơi, trong đó có Hải Phòng.
Vì chống Pháp mà cha của Tôn Thất Thuyết bi đi đày, hai con trai ông hy sinh, bản thân ông sau đó bôn ba và chết già ở nước ngoài.
Khi còn giữ chức án sát tỉnh Hải Dương, có lần đi thị sát vùng Duyên Hải, Tôn Thất Thuyết đã tâu với vua Tự Đức về việc lập các đồn binh Cửa Cấm, Lạch Tray, Đồn Riêng, nay đều thuộc Hải Phòng và đã được vua chấp nhận.
Đây là một phố nhỏ, thời Pháp thuộc và tạm bị chiếm không có nhiều cửa hàng cửa hiệu lớn, sinh sống chủ yếu là dân lao động người Hoa, tuy nhiên cũng khá đông vui. Đền Nhà Bà là nơi thờ cúng đồng thời cũng là nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao của Hoa kiều.
Nay phố có cổng sau của chợ Tam Bạc, lối vào chính là tường sau của đền Nhà Bà cũ nay đã cải tạo lại.