Từ
đường Điện Biên Phủ (chân cầu Lạc Long) đến điểm tiếp giáp với phố Phạm
Hồng Thái, dài 1060m, rộng 6m. Phố Lý Thường Kiệt cắt qua các phố: Phạm
Bá Trực, Kỳ Đồng, Lãn Ông, Trạng Trình, Hoàng Ngân, Tôn Thất Thuyết, Ký
Con.
Phố
thuộc đất xã An Biên và Gia Viên cũ, trước giải phóng thuộc khu Trung
ương. Phố Lý Thường Kiệt có vai trò khá quan trọng trong việc giao lưu
buôn bán trong thời Pháp thuộc và thời tạm bị chiếm, nhất là những ngày
đầu hình thành đô thị Hải Phòng.
Phố Lý Thường Kiệt
Từ đường Điện Biên Phủ (chân cầu Lạc Long) đến điểm tiếp giáp với phố Phạm Hồng Thái, dài 1060m, rộng 6m. Phố Lý Thường Kiệt cắt qua các phố: Phạm Bá Trực, Kỳ Đồng, Lãn Ông, Trạng Trình, Hoàng Ngân, Tôn Thất Thuyết, Ký Con.
Phố thuộc đất xã An Biên và Gia Viên cũ, trước giải phóng thuộc khu Trung ương. Phố Lý Thường Kiệt có vai trò khá quan trọng trong việc giao lưu buôn bán trong thời Pháp thuộc và thời tạm bị chiếm, nhất là những ngày đầu hình thành đô thị Hải Phòng.
Phố Lý Thường Kiệt hiện nay gồm hai phố thời Pháp thuộc gộp lại: phố Comméc (Rue de Commerce) nghĩa là phố buôn bán, thường được gọi là phố Bati và phố Sinoa (Rue Chinoise) nghĩa là phố người Trung Quốc, thường gọi là phố Khách, cũng gọi là phố Trung Quốc. Phố Comméc từ điểm tiếp giáp vườn hoa chân cầu Lạc Long đến đầu phố Bắc Ninh (nay là Lãn Ông). Phố Sinoa từ điểm tiếp giáp với phố Comméc đến phố Tuaran (Rue Tourane) tức phố Phạm Hồng Thái hiện nay. Sau cách mạng tháng Tám, phố Comméc đổi gọi là phố Lê Quí Đôn; phố Sinoa đổi gọi là phố Tôn Trung Sơn. Năm 1954, phố mang tên hiện nay.
Lê Quí Đôn (1726-1784) người làng Duyên Hà, nay thuộc xã Phú Hiếu, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Lê Quí Đôn nổi tiếng thông minh mẫn tiệp. Ba kì thi hương, hội, đình ông đều đỗ đầu giành học vị bảng nhãn, làm quan ở cả văn ban, võ ban, cả ở nội các và ngoài phiên trấn, dù ở cương vị nào cũng dốc lòng hết sức. Năm 1760, ông được cử đi sứ Trung Quốc. Học giả phương bắc khâm phục tài cao học rộng của ông. Tuy từng làm quan to nhưng Lê Quí Đôn được đời sau nhớ đến chủ yếu vì công lao to lớn của ông đối với nền văn chương học thuật nước nhà ông để lại nhiều trước tác có giá trị về kinh tế, triết học, văn học, sử học… Lê Quí Đôn được coi là nhà bác học của nước ta thời cổ.
Tôn Trung Sơn (1866-1925) húy là Tôn Văn, có tên hiệu là Trung Sơn và Dật Tiên. Ông là nhà cách mạng nổi tiếng của Trung Quốc, người đề xuât chủ nghĩa Tam dân (dân tộc độc lập, dân sinh hạnh phúc, dân quyền tự do) và chủ trương "Liên Nga, Liên Cộng, ủng hộ công nông". Ròng rã bốn mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng, trải nhiều gian nguy, chống lại triều đình Mãn Thanh hủ bại, năm 1911, cuộc cách mạng dân chủ tư sản do Tôn Trung Sơn lãnh đạo đã thành công, lập ra nền dân quốc Trung Hoa. Ông được cử làm Tổng thống. Trong thời gian hoạt động bí mật co nhiều lần sang Việt Nam trong đó có hai lần đến Hải Phòng.
Lý Thường Kiệt (1036-1105) người phường Cơ Xá, huyện Quảng Đức, Thăng Long. Ông vốn họ Ngô, tên Tuấn, tên chữ là Thường Kiệt, sau được ban họ vua nên gọi là Lý Thường Kiệt. Ông là người văn võ toàn tài. Năm 1069 đã chỉ huy đánh tan quân xâm lược Chiêm Thành. Năm 1075, nhà Tống chuẩn bị xâm lược nước ta, triều đình sai ông và Tôn Đản đem binh chống giữ. Hai ông đưa quân đánh thẳng vào Châu Khâm, Châu Liêm (Quảng Đông) và Ung Châu (Quảng Tây), phá tan những cơ sở hậu cần của địch. Năm 1076, quân Tống sang xâm lược, ông đã xây dựng phòng tuyến sông cầu nổi tiếng, tại đây đã phá tan quân xâm lược. Ông là tác giả bài Lộ bố văn và bài thơ Nam quốc sơn hà, được nhiều người coi là bản tuyên ngôn đọc lập lần thứ nhất của nước ta.
Đứng từ phía cầu Lạc Long nhìn vào phía sau phố Lý Thường Kiệt sẽ thấy những mái nhà lợp ngói âm dương của Hoa kiều. Có thể nói đây là phố "phố cổ" của Hải Phòng, xuất hiện cùng với buổi đầu ra đời của thành phố. Đây là nơi buôn bán sầm uất với những hiệu bán vải, len dạ, tơ lụa, giầy mũ… những hãng Tân Phúc Hòa làm xà phòng và giầy vải, giầy thể thao, các hiểu vải len dạ Ích Thành, Ích Đại, Mỹ Lợi, Tân Hưng… đặc biệt, phố tập trung hầu hết những hiệu vải của người Ấn Độ tới Hải Phòng buôn bán. Trong thời gian tạm chiếm họ có khoảng 30 hiệu. Số nhà 89 phố Comméc là hãng xà phòng Alimmacca, thường gọi là xà phòng Con Dê vì trên các bánh xà phòng đều có in hình con dê. Xà phòng của hãng có nhiều loại to, nhỏ khác nhau, phù hợp với túi tiền của nhiều loại người. Tương truyền chủ hãng rất giàu, khi Nhật chiếm Hải Phòng, để che giấu của cải, chủ hãng đem vàng đúc thành đinh, vít, đinh ốc rồi sơn đen nên không ai biết là vàng.
Ở phố còn có một số khách sạn. Có tiếng hơn là khách sạn Đại Á (Taia) ở 45E phố Comméc và Ích Tân ở 38 phố Sinoa.
Người Pháp chỉ có hãng Poanhsa Vêrê (Poinsard Veyret) là đáng kể.
Nay đây vẫn là phố buôn bán khá nhộn nhịp. Vị trí của phố thuận tiện cho việc buôn bán, gần sông Tam Bạc, lại gần chợ Trần Quang Khải, chợ Tam Bạc, chợ Đổ, chợ Sắt.
Phố Lý Thường Kiệt trước đây là nơi hoạt động của nhiều chiến sĩ cách mạng: Hiệu tạp hóa Hiệp Thành của chiến sĩ cách mạng Trần Bình, ông Lê Giản (tức Tô Dĩ) khi làm báo Tin Mới cũng ở phố này và được quần chúng cách mạng người Việt, người Hoa giúp đỡ.
Nhà số 14 ngõ Gạo (nay là ngõ 61) là di tích cách mạng được Bộ Vă hóa xếp hạng tháng 12/1986. Đây là trạm giao thông liên lạc quốc tế của Đảng trong những năm 20, có vai trò quan trọng, có vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam, cũng là nơi đầu tiên đón nhận cuốn Đường Kách mệnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc do Sao Đỏ (tức Nguyễn Lương Bằng) mang về.
Ngày 2/2/1931, Sở Mật thám Hải Phòng khám số nhà 79 phố Khách bắt được Lam Tin Chu cùng nhiều giấy tờ cộng sản, truyền đơn và một máy in. Mật thám cho rằng Lam Tin Chu là đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc.
Phố Lý Thường Kiệt ghi nhiều chiến công của quân dân ta, tháng 11/1946 chống thực dân Pháp gây hấn chiếm lại Hải Phòng. Trong chiến tranh phá hoại của Mỹ, phố bị đánh phá ác liệt, nhất là đoạn xung quanh chợ Đổ.