Từ ngã ba đường đi đảo Đình Vũ đến điểm tiếp giáp với phố Lạch Tray, qua đia phận tiếp giáp với các phường Đằng Hải, Đông Hải, Đằng Lâm và phường Đằng Giang. Đây là một đoạn đường bao phía nam thành phố. Toàn bộ đường bao này bắt đầu từ đường đi đảo Đình Vũ đến cầu An Dương. Sau khi hoàn thành xây dựng đợt đầu con đường này nhân kỷ niệm 500 năm ngày sinh danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hội đồng Nhân dân thành phố đã quyết diinhj đặt tên đường là Nguyễn Bỉnh Khiêm, từ ngày 30/7/1991
Từ ngã ba đường đi đảo Đình Vũ đến điểm tiếp giáp với phố Lạch Tray, qua đia phận tiếp giáp với các phường Đằng Hải, Đông Hải, Đằng Lâm và phường Đằng Giang.
Đây là một đoạn đường bao phía nam thành phố. Toàn bộ đường bao này bắt đầu từ đường đi đảo Đình Vũ đến cầu An Dương. Sau khi hoàn thành xây dựng đợt đầu con đường này nhân kỷ niệm 500 năm ngày sinh danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hội đồng Nhân dân thành phố đã quyết diinhj đặt tên đường là Nguyễn Bỉnh Khiêm, từ ngày 30/7/1991.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1419-1585) người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, đạo Hải Dương, nay là thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bão, thành phố Hải Phòng.
Xuất thân trong một gia đình nho học. Cha mẹ lại hết sức quan tâm dạy dỗ lại thêm bản tính thông minh, hiếu học, từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng. Nhưng khi trưởng thành gặp phải lúc triều Lê suy đồi, các tập đoàn phong kiến tranh giành xâu xé quyền lực, thế đạo suy vi nên Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ ở nhà dạy học và sáng tác thơ ca, không chịu đi thi để ra làm quan. Mãi đến năm 44 tuổi, thấy triều Mạc thi hành nhiều chính sách chính trị tốt, xã hội ổn định lại gặp lúc nhà Minh đem quân đến biên giới, lấy danh nghĩa là phù Lê diệt Mạc, lăm le vào cướp nước ta, bạn bè ông khuyến khích, Nguyễn Bỉnh Khiêm mới dự kỳ thi hương khoa Giáp Ngọ (1534) và đỗ giải nguyên; Khoa thi hội, thi đình năm Ất Mùi (1535) ông liên tiếp đỗ đầu, tức hội nguyên, đình nguyên, giành được học vị Tiến sĩ cập đệ nhất danh, tức Trạng Nguyên. Dưới chế độ thi cử thời phong kiến, rất hiếm người đỡ đầu liền 3 khoa liên tiếp và dành được học vị cao nhất như ông.
Sau khi thi đỗ, được cử giữ chức Đông các hiệu thư. Làm quan chỉ 8 năm thăng đến chức Tả thị lang bộ Lại nhưng từ khi vua Thái Tông Mạc Đăng Doanh mất, chúa nhỏ nối ngôi, bọn quyền thần chuyên quyền, dối vua, hại dân, con rể ông là Phạm Dao cũng cậy thế làm càn, khuyên nhủ không được, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất buồn bực, ông dâng sớ vạch tội 18 tên quyền thần và xin chém cả. Vua Mạc Phúc Hải không nghe, Nguyễn Bỉnh Khiêm kiên quyết xin về hưu. Về quê, ông dựng am Bạch Vân, quán Trung Tân để dạy học, sáng tác văn thơ và truyền bá đạo lý, tư tưởng, thu hút nhiều danh sĩ trong triều ngoài nội. Học trò có đến hàng ngàn, nhiều người thành đạt.
Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy về ở ẩn nhưng nhà Mạc vẫn tôn trọng như bậc thầy, có việc nước quan trọng thường sai quan về hỏi hay mời ông về kinh để bàn việc. Vì có nhiều công lớn, nên ông được thăng đến chức Thái phó Trình quốc công, vì thế dân quen gọi là Trạng Trình. Ngoài tài chính trị, quân sự, Nguyễn Bỉnh Khiêm được người đời biết đến là do đóng góp lớn lao của ông với nền văn hóa dân tộc.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà sư phạm mẫu mực, là danh nhân văn hóa tiêu biểu của thời đại, ông đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước, là tác giả văn học lớn để lại một số lượng thi ca có giá trị cả chữ Hán, chữ Nôm. Năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng đã tổ chức kỷ niệm 500 năm ngày sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm với nghi thức quốc gia tại Văn Miếu, Hà Nội.
Đường bao được xây dựng nhằm giải tỏa giao thông nội thành, cho các xe có trọng tải lớn và cồng kềnh. Đến nay đường đã được mở rộng và hiệu quả sử dụng rất cao.