Đường trước vốn thuộc khu ngoại vi thành phố nên chưa có tên. Khi lập phường Cát Bi, chính quyền cơ sở tạm đặt là đường Ngô Gia Tự. Hội đồng nhân dân thành phố khóa X, họp kỳ 15 ngày 21/4/1993 đã chính thức đặt tên là đường Ngô Gia Tự.

Từ ngã tư chân cầu Rào đến ngã ba nông trường Thành Tô, dài 1500m, đến ngã ba vào sân bay Cát Bi. Đường mới được nắn thẳng, rải nhựa trong thời kỳ tạm chiếm, khi Pháp mở rộng sân bay Cát Bi. Trải qua chiến tranh lâu dài đường bị hư hỏng nặng. Năm 1984, thành phố và Tổng cục Hàng không khôi phục và cải tạo sân bay Cát Bi làm sân bay dân dụng. Ngày 10/5/1985 đã chính thức mở tuyến bay Hải Phòng – thành phố Hồ Chí Minh. Dịp này đường được sửa chữa và cải tạo lớn.
Đường trước vốn thuộc khu ngoại vi thành phố nên chưa có tên. Khi lập phường Cát Bi, chính quyền cơ sở tạm đặt là đường Ngô Gia Tự. Hội đồng nhân dân thành phố khóa X, họp kỳ 15 ngày 21/4/1993 đã chính thức đặt tên là đường Ngô Gia Tự.
Ngô Gia Tự sinh năm 1908 tại làng Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc, thuộc dòng họ trí thức lâu đời, có nhiều người hiển đạt. Tuy gia đình sa sút, Ngô Gia Tự vẫn quyết tâm vượt khó, kiên trì học tập nên đã trúng tuyển vào trường Trung học Bảo hộ. Khi còn đi học, đã tham gia phong trào yêu nước. Năm 1926 gia nhập Việt Nam Thanh niên cách mạng Đồng chí Hội. Năm 1927, sau khi tham dự lướp huấn luyện do đồng chí Nguyễn Ái Quốc mở ở Quảng Châu, Ngô Gia Tự về nước hoạt động và được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh, Bắc Giang, Ủy viên kỳ bộ Bắc Kỳ. Tháng 3/1929, tham gia xây dựng chi bộ Cộng sản đầu tiên trong nước; kế đó tham gia thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng và được phân công giữ chức Bí thư lâm thời xứ ủy Nam Kỳ. Ngày 11/5/1930, ông bị bắt ở Sài Gòn, Pháp kết án tù chung thân đày ra Côn Đảo. Cuối năm 1934 tổ chức vượt ngục về đất liền hoạt động, nhưng hy sinh ngoài khơi.
Giữa đường Cát Bi và đường Ngô Gia Tự có nhiều đường lối nhỏ thông hai đường này với nhau, phần lớn chưa có tên; trong đó có đường nhân dân tự đặt là Lí Hồng Nhật.
Đầu đường phía cầu Rào hiện còn hai ngôi tháp dấu tích của chùa làng An Khê. Làng này có tên nom là làng Rào, được nhiều người biết đến, vì làng là lị sở của huyện An Dương. Đến tháng 12 năm Tự Đức thứ 30 (1877), tổng đốc Hải – Yên là Phạm Phú Thứ mới xin vua cho làm huyện lị đến xã Hàng Kênh, nay thuộc quận Lê Chân. Vì huyện lị ở làng Rào nên người ta hay gọi là huyện Rào. Ngoài ra ở làng An Khê (Rào) còn có đồn binh của nhà nước phong kiến ở gần sông Lạch Tray. Theo văn bia chùa An Khê do tri huyện An Dương soạn năm 1872, huyện còn có chợ lớn gọi là chợ Rào, nằm chủ yếu trên đất Lực Hoành và một phần đất của làng An Khê.